Trẻ nhiễm vi khuẩn HP: Khi nào nên điều trị?
Nhiễm khuẩn HP là nguyên nhân hàng đầu gây viêm loét dạ dày tá tràng ở trẻ em, thậm chí có thể dẫn đến ung thư dạ dày. Tuy nhiên không phải trường hợp nào xét nghiệm có HP cũng phải điều trị.
1. Vi khuẩn HP có lây nhiễm không?
Vi khuẩn HP rất dễ lây lan, 3 con đường lây nhiễm chính của vi khuẩn HP đó là:
- Lây nhiễm qua đường miệng: H.Pylori không chỉ tồn tại trong niêm mạc dạ dày người bệnh, chúng còn được tìm thấy trong nước bọt, mảng bám ở răng. Thói quen của người Việt Nam khi ăn uống là ăn chung mâm, dùng đũa gắp thức ăn cho nhau, dùng chung bát nước chấm... do đó nguy cơ lây nhiễm khuẩn HP là rất cao.
- Lây nhiễm qua đường dạ dày - dạ dày: Trong quá trình thực hiện thao tác nội soi tại các cơ sở y tế, nếu việc vệ sinh dụng cụ nội soi không được đảm bảo, vi khuẩn HP có thể lây nhiễm từ người bệnh sang người lành.
- Lây nhiễm qua đường phân - miệng: vi khuẩn HP tồn tại trong phân của người bệnh nên có thể lây nhiễm khi đi vệ sinh không rửa tay sạch, hoặc lây nhiễm qua các trung gian khác như côn trùng (ruồi, muỗi, gián) nếu chúng tiếp xúc với nguồn bệnh sau đó lại bám vào thức ăn.
Trẻ em dưới 10 tuổi là đối tượng dễ bị lây nhiễm HP nhất, nguyên nhân là do môi trường sống, thức ăn không đảm vệ sinh, người lớn có thói quen hôn hít trẻ, đút trẻ ăn bằng bát, đũa chung, mớm cơm cho trẻ, ngoài ra hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh cũng là yếu tố gây nhiễm vi khuẩn HP ở trẻ.

2. Vi khuẩn HP gây ra những bệnh lý nào?
Tỷ lệ nhiễm khuẩn HP rất cao trong dân số, tuy nhiên phần lớn những người bị nhiễm đều không có triệu chứng cũng như biến chứng. Sự nhiễm khuẩn này nhìn chung rất thầm lặng, tuy vậy thông thường nó gây ra những cơn đau dạ dày mãn tính như viêm dạ dày mãn hoặc loét dạ dày.
3. Trẻ bị nhiễm vi khuẩn HP: khi nào nên điều trị?
Nhiều bậc phụ huynh lo sợ vi khuẩn HP sẽ gây viêm loét, ung thư dạ dày nên khi xét nghiệm thấy trẻ có nhiễm HP thì lập tức yêu cầu bác sĩ diệt tận gốc vi khuẩn này. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, ngay cả khi đã được điều trị tiêu diệt HP thì khả năng nhiễm lại vẫn rất cao do trẻ chưa tự ý thức được vấn đề giữ vệ sinh khi ăn uống, sinh hoạt. Hiện nay, nếu nhiễm HP chưa có triệu chứng thì trước mắt chưa cần phải điều trị. Khi nghiên cứu sâu về vi khuẩn HP, các nhà khoa học nhận thấy trong một số trường hợp nó không hẳn có hại hoàn toàn. Nếu không gây ra triệu chứng gì, sự có mặt của HP sẽ giống như một vi khuẩn cộng sinh, đôi khi đem lại một số tác dụng đối với cơ thể con người.Theo khuyến cáo của các chuyên gia thì một số trường hợp sau cần diệt vi khuẩn HP để tránh gây hại đến sức khỏe và tính mạng của mỗi người:
- Loét dạ dày tá tràng: Loét dạ dày tá tràng do vi khuẩn HP (vì không diệt HP thì ổ loét dạ dày, hành tá tràng có thể tái phát).

- Chứng khó tiêu chức năng
- Xuất huyết giảm tiểu cầu nhưng không rõ nguyên căn
- Ung thư dạ dày đã phẫu thuật
- Thiếu máu, thiếu sắt
- Những trường hợp trong gia đình có người bị ung thư dạ dày: bố, mẹ, anh, chị em ruột.
- Viêm teo niêm mạc dạ dày.
Việc xét nghiệm và điều trị HP nên để bác sĩ chuyên ngành tiêu hóa khám, tư vấn và quyết định để tránh những tốn kém không đáng có.
Thuốc diệt vi khuẩn HP cần phối hợp nhiều loại khác nhau
Mỗi một loại thuốc điều trị vi khuẩn HP có ưu và nhược điểm riêng, chúng cần được sử dụng phối hợp theo phác đồ trị HP dạ dày cùng với các biện pháp hỗ trợ khác khi cần thiết như trong trường hợp nhiễm HP tái phát nhiều lần, HP đề kháng kháng sinh…để có hiệu quả. Sau đây là một số thuốc điều trị HP đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam và trên thế giới.
Kháng sinh Amoxicillin
Amoxicillin là một kháng sinh có độ bền cao với môi trường acid của dạ dày. Đây là một kháng sinh phổ rộng thuộc nhóm kháng sinh Beta lactam. Amoxicillin là một trong những loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất trong các phác đồ điều trị tiệt trừ vi khuẩn HP. Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng kháng sinh này gặp nhiều khó khăn do tỉ lệ kháng Amoxicillin của vi khuẩn HP đã tăng lên trên 43%. Như vậy thì tỉ lệ điều trị vi khuẩn HP thành công sẽ giảm đi đáng kể và đi kèm theo đó là tình trạng vi khuẩn đa kháng kháng sinh.

Kháng sinh Clarithromycin
Clarithromycin được đánh giá là loại kháng sinh rất hữu hiệu trong điều trị vi khuẩn HP. Kháng sinh thuộc nhóm Macrolid này rất nhạy cảm với vi khuẩn HP, có khả năng ức chế sinh tổng hợp protein của HP. Tuy có sự nhạy cảm nhất định với vi khuẩn HP nhưng Clarithromycin cũng đang gặp một vấn đề nan giải, đó là kháng kháng sinh. Theo nghiên cứu của BS. Đinh Cao Minh được đăng vào năm 2014, 57% trường hợp sử dụng thuốc trị HP dạ dày cho thấy có đề kháng với Clarithromycin. Đây là tỉ lệ cao nhất trong tất cả các loại kháng sinh, cho thấy tỉ lệ điều trị vi khuẩn HP thất bại với loại kháng sinh này là rất cao.
Metronidazol, Tinidazol
Với khả năng tác dụng trực tiếp tại dạ dày khá mạnh, Metronidazol và Tinidazol cũng thường được sử dụng phối hợp với các thuốc khác trong phác đồ điều trị vi khuẩn HP. Dù vậy, Metronidazol vẫn được sử dụng rộng rãi hơn Tinidazol. Bên cạnh đó, Metronidazol còn thường được chỉ định trong điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn răng miệng. Chính vì được sử dụng rộng rãi như vậy nên kháng sinh này có tỉ lệ kháng khá cao, lên tới 44.1%.

Levofloxacin
Levofloxacin là một kháng sinh cực mạnh với tác dụng rõ rệt trong điều trị vi khuẩn HP. Kháng sinh này được sử dụng trong phác đồ điều trị vi khuẩn HP cuối cùng. Cũng bởi vì tác dụng mạnh nên thuốc gây ra rất nhiều tác dụng phụ, đặc biệt là ở trẻ em. Levofloxacin làm ức chế sự phát triển hệ xương, http://google.rw/url?q=https://tuthuoc24h.net/sụn cùng các tác dụng phụ nguy hiểm khác. Do vậy, thông thường, trẻ em không được sử dụng Levofloxacin trong phác đồ điều trị của mình. Tuy vậy, cho đến năm 2013 đã có đến 25.5% trường hợp có đề kháng với loại kháng sinh mạnh này.
Tetracyclin
Tetracyclin là kháng sinh đã được sử dụng từ khá lâu trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn. Nó cũng được sử dụng trong các phác đồ điều trị tiệt trừ vi khuẩn HP. Tuy nhiên hiện nay kháng sinh này đã ít được sử dụng hơn nhiều do các tác dụng phụ mà nó gây ra. Tetracyclin không được chỉ định cho trẻ em và phụ nữ mang thai hoặc cho con bú vì những tác dụng phụ trên xương, trên răng và nhiều cơ quan. Mặc dù vi khuẩn HP rất khó kháng với kháng sinh này, tuy nhiên cũng có đến 23.5% trường hợp thống kê có sự đề kháng với Tetracyclin.
Bismuth subcitrate
Bismuth subcitrate là thuốc điều trị phối hợp với các thuốc khác trong phác đồ điều trị HP để tăng tỉ lệ điều trị thành công. Thuốc này có hai cơ chế tác dụng chính:vừa làm giảm tổn thương vết loét do acid dạ dày, bảo vệ vết loét vừa giúp ức chế vi khuẩn HP.

Tuy nhiên, sử dụng Bismuth cũng gây khá nhiều tác dụng phụ đáng ngại cho người bệnh. Do Bismuth có bản chất là một kim loại nặng nên trong quá trình điều trị, bệnh nhân cần được theo dõi nồng độ chất này trong máu. Nếu không được theo dõi sát sao, người bệnh có thể mắc các bệnh lý do nhiễm kim loại nồng độ cao trong máu.
Thuốc ức chế acid dạ dày
Đây là nhóm thuốc hỗ trợ nhằm làm tăng tác dụng điều trị tiệt trừ HP của các thuốc khác trong phác đồ điều trị. Có hai nhóm thuốc thường được sử dụng bao gồm thuốc ức chế tiết acid dạ dày và thuốc ức chế bơm proton PPI. Trong đó, PPI được dùng trong phác đồ điều trị nhiều hơn cả. Chúng có tác dụng làm giảm triệu chứng của bệnh viêm loét dạ dày, đồng thời làm tăng tác dụng diệt khuẩn HP.
Tuy hiệu quả là vậy, nhưng nếu sử dụng liên tục trong thời gian dài, các tế bào thành dạ dày sẽ bị teo dần. Đây là dấu hiệu có thể dẫn tới bệnh Ung thư dạ dày. Bởi vậy, bệnh nhân mắc các bệnh lý dạ dày tốt nhất nên tuân thủ đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ, đặc biệt là trong sử dụng thuốc điều trị.